Giải đáp cuộc sống

Một số vấn đề về đối tác, đối tượng trong tình hình mới hiện nay

Xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế luôn là vấn đề nhạy cảm và quan trọng đối với các quốc gia, dân tộc. Trong hơn 35 năm đổi mới, mở cửa, việc xác định đối tượng, đối tượng và xử lý mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng luôn là trọng tâm được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Đây là cơ sở để Việt Nam hoạch định chính sách đối ngoại, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

van de doi tac 1Cán bộ Đại sứ quán tại Mỹ và Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đón Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đến thành phố New York (Mỹ), bắt đầu chương trình tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 76 và thực hiện một số hoạt động song phương bên lề phiên họp. Ảnh: TTXVN

Đang xem: đối tác là gì đối tượng là gì

Hợp tác là một thuật ngữ trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia dùng để chỉ mối quan hệ hợp tác, liên kết nhưng ở cấp độ cao hơn và cụ thể hơn. Một quan hệ đối tác bao gồm hai hoặc nhiều bên cùng hành động để: tăng cường hợp tác nhằm đạt được các mục tiêu chung; thiết lập các kênh và cơ chế cơ bản để giải quyết các khác biệt và tranh chấp; thực hiện các biện pháp để tăng cường mối quan hệ; thống nhất về phương hướng đánh giá tiến độ; và chia sẻ kết quả của sự hợp tác. Quan hệ đối tác thể hiện sự thân thiết, bình đẳng, có đi có lại. Hình thức hợp tác rất linh hoạt, tùy thuộc vào mức độ phát triển của mối quan hệ giữa hai bên.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang tham gia vào quá trình liên kết và hội nhập nhằm tìm kiếm sự phát triển của mình. Do đó, đối tác có thể được hiểu là thuật ngữ chỉ mối quan hệ hợp tác, cộng tác, liên minh, phối hợp trong đó hai hoặc nhiều bên cùng hành động và hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu chung hoặc mục tiêu tương tự. Theo các cấp độ khác nhau của mối quan hệ, nó được chia thành các cấp độ khác nhau, như đối tác song phương, đối tác khu vực, đối tác quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện…

Khách quan là thuật ngữ chỉ mối quan hệ đối lập, đối lập, đối lập, thù địch… không có lợi cho việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia trong hoạt động nhất định. Các đối tượng cũng có nhiều kích cỡ, phạm vi và cấp độ khác nhau. Chủ thể của cả nhân loại, mỗi nước, mỗi lĩnh vực, mỗi lúc, mỗi nơi có những quan điểm và hành động cụ thể khác nhau.

Quan điểm của đảng ta về các đối tác và mục tiêu chính sách đối ngoại

Trong đường lối đối ngoại của Việt Nam, xác định rõ “đối tác” và “đối tượng”, kế thừa truyền thống lịch sử của cha ông ta và tư tưởng ngoại giao “nhiều bạn, ít địch” của Hồ Chí Minh, là sự tiếp nối đường lối đối ngoại nhất quán của thời kỳ trước. từ công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ. Những truyền thống, tư tưởng, quan điểm, chính sách đó luôn xuyên suốt, qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau và được vận dụng, xử lý linh hoạt đối với các đối tượng, đối tượng cụ thể. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng hòa bình, nhiều bạn, ít thù của tổ tiên và sẽ vận dụng linh hoạt trong chính sách đối ngoại sau này.

Mười năm đầu của thời Lê Xin (1976-1986), quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, trong đó Liên Xô là “đồng minh mạnh nhất và ổn định nhất của Việt Nam”, Lào và các nước khác. các nước, Campuchia, các nước Cộng đồng xã hội chủ nghĩa, các nước châu Phi, các nước Mỹ Latinh, chủ nghĩa cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, kinh tế, phong trào không liên kết, lực lượng cách mạng thế giới. Đối tượng đấu tranh trong quan hệ quốc tế là các nước đế quốc, các nước tư bản chủ nghĩa.

Có thể thấy, sự phân chia đối tác và đối tượng của đảng trước cải cách phản ánh bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đó là trật tự thế giới hai cực chia cắt bạn và thù, bạn và thù, Đông và Tây. triều đại. Do đó, sự đánh giá của đối tác-đối tượng Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi tư duy hình tượng. Tại các kỳ đại hội đảng (1986), nhất là đại hội đảng (1991), đảng ta đã nhanh chóng cập nhật tư duy, nhận thức đúng tầm quan trọng của quan hệ giữa các nước lớn và các nước láng giềng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Tư duy đối ngoại đa phương của Đảng ngày càng rõ nét, hệ thống hơn và không ngừng phát triển.

Nghị quyết số 13/nq-tw ngày 20-5-1988 “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong hoàn cảnh mới” là văn kiện đầu tiên của Đảng, là cơ sở của đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa”; tại Đại hội đồng thời thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và mục tiêu chính sách đối ngoại của Việt Nam, từ đối đầu đấu tranh sang cùng tồn tại hòa bình và hợp tác. Nghị quyết này đánh dấu sự chuyển biến chiến lược về tư duy bạn và thù, là tiền đề để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chính thức khẳng định khẩu hiệu “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại. Vì vậy, trong các kỳ Đại hội trước, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đã được bổ sung, hoàn thiện và thích ứng với tình hình mới, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Thực tiễn đối ngoại đa phương hóa của Việt Nam đã chứng minh là chủ trương kịp thời, đúng đắn và thiết thực, thể hiện sự đổi mới tư duy ngoại giao của Đảng, từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại của Việt Nam, nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam ở khu vực trên trường quốc tế .

Sự chuyển biến mới trong tư duy đối ngoại của Đảng ta xuất phát từ các yếu tố sau:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước. Trước đại hội đảng, Việt Nam lâm vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế – xã hội, đất nước bị bao vây, cô lập, quan hệ với Trung Quốc chưa được cải thiện. Để thoát khỏi tình thế hiểm nghèo đó, Đảng ta đã quyết tâm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực, từng bước mở rộng quan hệ với khu vực và các nước trên thế giới. Việc giải quyết vấn đề Campuchia năm 1989 đã giải tỏa một trở ngại quan trọng cho Việt Nam trong việc kết bạn mới, đồng thời tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, trong điều kiện hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn, bên cạnh yêu cầu thoát khỏi bao vây, cấm vận, Việt Nam cũng cần mở rộng quan hệ với các nước ngoài khối và thực hiện chủ nghĩa xã hội. Tuyên bố của Quốc hội khóa VII (1991): Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển là sự khẳng định nguyện vọng đó.

Thứ hai, tình hình thế giới và khu vực cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc Đảng phải suy nghĩ lại về khái niệm quan hệ đối tác. Chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo điều kiện cho xu thế hòa giải thắng thế trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới; tạo điều kiện hình thành xu thế đa nguyên hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Một trật tự thế giới mới đa cực đang dần hình thành. Khoa học kỹ thuật và các cuộc cách mạng công nghệ đã làm đảo lộn đời sống quốc tế. Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan tất yếu và không một quốc gia nào trên thế giới có thể khoanh tay đứng nhìn.

Thứ ba, các nước trên thế giới đã lần lượt điều chỉnh chiến lược quốc gia, đường lối đối ngoại, có khả năng thích ứng và chủ động nhất định trong môi trường quốc tế mới. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do hệ thống xã hội của một số nước Đông Âu và Liên Xô đã trải qua những xáo trộn lớn, dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc hai cực. Trong thời kỳ chuyển đổi từ trật tự thế giới cũ sang trật tự thế giới mới, các quốc gia điều chỉnh chính sách dựa trên lợi ích quốc gia, dân tộc nhằm tìm kiếm những điều kiện thuận lợi để tối đa hóa lợi ích của mình. Các nước lớn chủ trương tăng cường hợp tác, tích cực cải thiện quan hệ lẫn nhau, mỗi bên tìm kiếm cơ hội của mình trong bối cảnh mới, tránh xung đột, đối đầu. Một số khuôn khổ hợp tác đã được thiết lập để quản lý các mâu thuẫn và xung đột lợi ích đang nổi lên.

Tham khảo: Làm thế nào để xây dựng được chiến lược marketing hiệu quả? 

Thứ tư, khu vực châu Á – Thái Bình Dương có những chuyển biến tích cực về thiết lập, củng cố quan hệ, mở rộng hợp tác để thúc đẩy phát triển; xu thế hòa bình hợp tác, đấu tranh và giải quyết xung đột ngày càng thể hiện rõ.

Tất cả những yếu tố nêu trên là điều kiện để Việt Nam thực hiện các biện pháp đổi mới tư duy đối ngoại, đi theo con đường đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa nguyên, trong đó có đổi mới tư duy đối tác-đối tượng. Nghị quyết Trung ương 9 (2003) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” được đúc kết thành những nguyên tắc, thể hiện quan điểm mới thống nhất về đối tác và đối tượng. Có mấy nguyên tắc chỉ đạo việc xác định đối tác, đó là phải dựa trên tinh thần tăng bạn, bớt thù, chia rẽ, cô lập các thế lực thù địch, phát huy tối đa sự đồng thuận, có lợi cho nhân dân tiến bộ trên thế giới . Mười năm sau, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (2013) đã nêu rõ nguyên tắc trên: đối tác là những người tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, và thiết lập Và phát triển tình hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi là tất cả các đối tác. Tuy nhiên, cần có các nhóm đối tác rõ ràng để phát triển các chính sách và chiến lược cho các mối quan hệ và hợp tác. Mục tiêu là “bất kỳ thế lực nào có âm mưu hoặc hành động trái với mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là mục tiêu của chúng ta”.

Dựa trên ý thức của các đối tác, đối tượng ngày càng rõ nét, linh hoạt, mềm dẻo, biện chứng hơn, nghị quyết 28-nq/tw nhấn mạnh cần nhìn nhận một cách biện chứng trong sự tồn tại đan xen, đan xen lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Vì vậy, mỗi đối tác có thể có xung đột lợi ích mà chúng ta cần giải quyết, trong mỗi đối tác vẫn có thể có sự đồng thuận rằng cần phải có sự hợp tác. Việc nhìn nhận biện chứng các đối tác hợp tác đã mở ra những điều kiện thuận lợi cho các quan hệ hợp tác quốc tế và ngày càng giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến động phức tạp; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển, đảo, nhất là biển Hoa Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Dĩ hòa vi quý”. tiến hóa”, và các đối tác và mục tiêu rõ ràng được xác định là cơ sở cụ thể và phù hợp cho chính sách đối ngoại.

Có thể thấy, Đảng ta đã chuyển từ sự rạch ròi khái niệm “ta ta” sang biện chứng, tư duy về đối tác và đối tượng từ góc độ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa khách thể và đối tác; xác định đối tác là cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế; đồng thời đấu tranh với khách thể và mặt của khách thể. Phương châm “đối tác-đối tượng” là cơ sở để xử lý hiệu quả các mối quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp hiện nay. Khi đã trở thành bạn, đối tác tin cậy với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, chúng ta phải phân biệt đối tác với đối tác, đối tác với đối tác. Phương châm này giúp chúng ta tận dụng các cơ hội hợp tác, đồng thời nhìn rõ hơn sự khác biệt về lợi ích và tìm giải pháp phát triển các mối quan hệ, không bỏ lỡ cơ hội cũng như không chủ quan. Đây cũng là định hướng quan trọng để kết hợp chặt chẽ công tác đối ngoại với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

van de doi tac 2Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tham dự Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) lần thứ 28 theo hình thức trực tuyến, tháng 8-2021. Ảnh: TTXVN

Hiện đang xử lý một số vấn đề với mối quan hệ đối tác-đối tượng

Hiện nay, xung đột và xích mích giữa các cường quốc ngày càng trở nên gay gắt. Đồng thời, xu thế quan hệ nước lớn chi phối phương hướng và diễn biến của tình hình khu vực và thế giới. Hợp tác và cạnh tranh đan xen xoay quanh trục lợi ích, mà lợi ích là thước đo cao nhất trong quan hệ giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn, làm cho quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp, tạo ra cơ hội và thách thức đối với các nước trong thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện rõ trong nhận định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Tình hình thế giới tiếp tục phát triển theo hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác và thỏa hiệp, nhưng ngày càng gay gắt hơn. đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, độc đoán, thực dụng đang có xu hướng gia tăng, các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”1.

Bối cảnh tình hình thế giới và sự thay đổi tư tưởng của các nước đã dẫn đến sự hình thành các loại hình liên minh, liên minh; đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết trong xử lý quan hệ nhà nước- quan hệ với nhà nước.

Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, các nền kinh tế lớn trên thế giới có nhiều thay đổi, có xu hướng tập hợp lực lượng để tranh giành ảnh hưởng, trở thành hai cực trong bộ máy hành chính. Để đại diện cho thế giới mới, giống như tất cả các quốc gia và dân tộc, lợi ích phải được đặt lên hàng đầu, thực sự rất khó khăn và phức tạp để xác định đối tác, đối tượng, đối tượng giữa các đối tác và đối tượng giữa các đối tác. Ngoài ra, việc xác định đối tượng, đối tác vẫn là vấn đề tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.

Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tiềm năng, sự giàu có và vị thế của Việt Nam ngày càng được chứng minh. Xây dựng mạng lưới 30 đối tác chiến lược và hội nhập đảm nhận thành công nhiều trọng trách tại các tổ chức thế giới và khu vực, mang lại diện mạo và sức mạnh mới cho đất nước. Tuy nhiên, tình hình trong nước vẫn còn nhiều thách thức to lớn và diễn biến phức tạp. Với một số đối tác, chúng ta còn phải ứng phó với những tình huống phức tạp, khó lường. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục là trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ…

Trong bối cảnh thế giới và khu vực mới, để có chính sách đối xử với đối tác và đối tượng, cần nhận thức một cách biện chứng mối quan hệ giữa hai yếu tố này, từ đó hoạch định chính sách đúng mục tiêu, phù hợp.

Đầu tiên hãy xem xét hai yếu tố đối tác và đối tượng cần được đặt thành một thể thống nhất. Đối tác, đối tượng là hai mặt của một vấn đề, trong một số đối tác vẫn có thể có những bất đồng, mâu thuẫn, trong mỗi đối tượng vẫn có những mặt có thể tiếp thu, cộng tác. Vì vậy, việc xác định đối tượng, khách thể phụ thuộc vào hoàn cảnh, tình huống và thời điểm cụ thể, không tĩnh tại.

Khi công nhận đối tác, đối tượng cùng chủ thể thì phải lấy mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia làm tiêu chí xác định mức độ hợp tác. Điều đó có nghĩa là, trong khi mở rộng hợp tác với các đối tác, chúng ta phải hết sức cảnh giác, phát hiện những mâu thuẫn có thể xảy ra để đánh trả kịp thời. Đồng thời, đấu tranh chống đối không có nghĩa là đối đầu, mà cần tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu, xây dựng lòng tin, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, mở rộng hợp tác bình đẳng với nhau.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta cần hết sức cảnh giác và nhạy bén. Ngay giữa các đối tác cũng có các mức độ quan hệ khác nhau, như bạn hàng hợp tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, v.v. Thậm chí có đối tượng là có đối tượng trong một khoảng thời gian nhất định, có đối tượng căn cứ và lâu dài. Trên thực tế, trong quan hệ quốc tế, với một quốc gia cụ thể, có thời điểm, một bên là đối tượng nhưng ở một thời điểm, giai đoạn khác, một bên lại có thể là đối tác. Ngay cả các quốc gia có hệ thống chính trị khác nhau, hoặc các quốc gia có tranh chấp chủ quyền cũng có thể trở thành đối tác chiến lược và hợp tác. Ngược lại, nhiều quốc gia dù là đồng minh cũ vẫn có thể trở thành mục tiêu của nhau trong một thời điểm nhất định.

Tham khảo: R là tập hợp số gì? R là gì trong toán học? Bài tập minh họa?

Thứ hai, việc xác định thuộc tính đối tượng ngày nay cũng “mềm” hơn, linh hoạt hơn, không còn cứng nhắc dựa trên ý thức hệ như trước, mọi mối quan hệ đều được xem xét theo khuôn khổ “thù và địch”. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế toàn diện ngày nay, đối tác của chúng ta không chỉ là hệ thống xã hội chủ nghĩa theo nghĩa hẹp và các nước cùng phe với chúng ta, mà còn rất đa dạng và rộng mở. hệ thống chính trị khác nhau. Vì vậy, một số quốc gia không chỉ là đối tác của chúng ta, mà còn là đối tượng chúng ta cần đối đầu trong một số lĩnh vực nhất định.

Thực tế, các “đối tượng” ngày nay cũng “thoáng” hơn với nhà nước. Những năm gần đây, dưới tác động của các cường quốc tranh giành quyền lực và nhiều yếu tố bên trong, xu thế huy động quyền lực diễn biến đa dạng, phức tạp đã tác động nhiều chiều đến môi trường, cấu trúc khu vực và từng quốc gia trong khu vực. Ngày nay quan hệ giữa các quốc gia ngày càng đa dạng và phức tạp. Từ tiểu khu vực đến toàn cầu, từ song phương đến đa đảng, từ chặt chẽ đến lỏng lẻo, từ chiến lược đến ngắn hạn… xu thế tập hợp lực lượng, liên minh ngày càng rõ nét và chiếm ưu thế. thế giới. Tập hợp lực lượng từ các mục tiêu khác nhau. Vì vậy, các quốc gia không nhất thiết phải có cùng một hệ thống chính trị để có thể liên minh và quan hệ với nhau. Quan hệ kinh tế – thương mại đã trở thành phương tiện quan trọng để tranh giành ưu thế khu vực và tập hợp sức mạnh trong cuộc cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn.

Việc xác định tính chất “mở” của đối tượng giúp chúng ta có cách nhìn và xử lý linh hoạt hơn, tạo cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch. Đồng thời, để đạt được lợi ích tối đa trong quá trình hợp tác với các đối tác, Việt Nam cũng phải là đối tác tin cậy, có trách nhiệm đóng góp vào công việc chung của khu vực và thế giới. Trong quan hệ quốc tế, “có đi có lại” là cơ sở để xây dựng các mối quan hệ bền vững và lâu dài.

Thứ ba, đối tác – khách thể là mối quan hệ linh hoạt, đan xen và chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, cần thấy rõ mối quan hệ biện chứng, tính linh hoạt của đối tác và đối tượng, sự “biến hóa mềm” trong cặp đối tác – đối tượng. Trong khi đẩy lui đối tượng, cũng phải dùng mặt đối phương, dù là nhỏ nhất nhất thời, có thể hạn chế mặt đối tượng, dần dần chuyển hóa đối tượng thành bạn tình. Tuyệt đối tránh những cách nhìn, đánh giá phiến diện về đối tác, đối tượng. Thật không đúng khi chỉ tập trung vào việc xác định những mặt tích cực mà không nhìn thấy những tiêu cực và xung đột ở đối tác của bạn. Cũng như vậy, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực, những mâu thuẫn, khác biệt mà không nhìn thấy mặt tích cực, những điểm tương đồng của mỗi đối tượng là sai lầm. Đây là sự ghi nhận hết sức quan trọng, giúp chúng ta thúc đẩy quan hệ, đổi mới hình thức và nội dung của quan hệ bang giao. Đặc biệt trong quan hệ với các nước phát triển, nhận thức này là cơ sở để chúng ta thúc đẩy hợp tác về vốn, công nghệ, kinh nghiệm xử lý các vấn đề toàn cầu, quản trị và các khía cạnh quan trọng khác của sự phục hưng đất nước. Sự “chuyển đổi mềm” này xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của chính đất nước, đồng thời do chính sách đối ngoại của Việt Nam định hướng. Vì vậy, để đẩy mạnh sự “chuyển hóa mềm”, tận dụng “đối tượng” và giảm bớt bản chất của “khách thể” để nâng cao hiệu quả quan hệ “đối tác”, phía Việt Nam phải tăng cường nội lực, dũng cảm. , độc lập tự chủ và kiên quyết không để đất nước rơi vào thế bị động, bất lực hoặc rơi vào tình thế đối đầu, cô lập. Nắm bắt cơ hội để phát huy những điểm tương đồng, đồng thời xác định những vấn đề nổi cộm, bất đồng, thách thức cần giải quyết và chủ động giải quyết. Tính chất đan xen, chuyển hóa giữa các đối tác và chủ thể đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quan điểm của Đảng vào thực tiễn, có nguyên tắc và phù hợp với điều kiện. quốc gia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia.

van de doi tac 3Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung (giữa bên trái) nhận lời chúc mừng của đại diện ngoại giao các nước sau khi Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021, ngày 7-6-2019. Ảnh: Tư liệu

Thứ tư, cần phân loại đối tác và có hướng dẫn, chiến lược cho mối quan hệ và hợp tác. Cần xác định rõ và ứng phó linh hoạt, tăng cường hợp tác, tạo lập lợi ích chiến lược đan xen giữa nước ta với các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn, đối tác chiến lược, láng giềng chiến lược, bạn bè truyền thống. ..

Thứ năm, trên cơ sở nhận thức rõ đối tác và mục tiêu, phải có cách ứng xử khôn khéo, linh hoạt, tùy từng thời điểm, tình hình, tùy từng đối tác và mục tiêu cụ thể, hai bên phối hợp và có biện pháp phù hợp. Hợp tác nhưng vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền; đấu tranh nhưng vẫn đảm bảo giữ vững bức tranh ổn định – phát triển, bức tranh chính trị – ngoại giao và quan hệ hợp tác. Đối với thần dân, chúng ta kiên trì, mềm dẻo, biết người, biết bạn, giữ hòa khí, kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia. “Thực tiễn cho thấy, giữa các chủ thể trên thế giới không phải lúc nào cũng thống nhất về lợi ích, khi không thống nhất với nhau thì mỗi chủ thể sẽ tìm cách bảo vệ lợi ích của mình. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế, đối với bất kỳ chủ thể nào cũng có sự hợp tác và đấu tranh. Hai mặt, hợp tác một chiều hay đấu tranh một chiều sẽ dẫn đến tình trạng cả hai bên đều thua.”2. Trên tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, phía Việt Nam sẵn sàng hợp tác, là đối tác tin cậy, sử dụng lợi thế của quan hệ hai nước để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Bên cạnh việc tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh giải quyết thắng lợi những vấn đề nảy sinh, tình hình phức tạp, những mâu thuẫn và khác biệt, góp phần duy trì và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Xử lý quan hệ đối tác, quan hệ khách thể từ tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của đất nước, dân tộc làm gốc, không vì lợi ích trước mắt, cục bộ mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài.

Thứ sáu, việc thừa nhận đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, lâu dài, thường xuyên, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị, chiến lược, chính sách tổng thể và từng thời kỳ. Để có nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, chúng ta cần quan tâm nghiên cứu, dự báo chiến lược, nhất là nghiên cứu để hiểu rõ bản chất, đặc điểm, khả năng, nguy cơ, thách thức của từng đối tác, đối tượng tác động trực tiếp đến hòa bình. và ổn định quốc gia (ngắn hạn và dài hạn) để từ đó có những phản ứng chính sách hiệu quả.

Mục tiêu cơ bản và lâu dài của nhận thức và vận dụng góc độ đối tác là không ngừng tăng cường đoàn kết, mở rộng hợp tác hữu nghị với bạn bè quốc tế, sử dụng đối tác, phòng ngừa, hạn chế, thu hẹp diện. Phê phán, bác bỏ quan điểm, nhận thức máy móc, cứng nhắc, coi đối tác chỉ là hợp tác, đối tượng chỉ là cô lập, đấu tranh. Nhận thức đúng về quan hệ đối tác và đối tượng là kim chỉ nam rất quan trọng để chúng ta xử lý đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo các vấn đề, tình huống phát sinh trong quan hệ hợp tác quốc tế. Qua đó tăng cường đồng thuận trong quan hệ quốc tế, giảm thiểu khác biệt, thực hiện lợi ích của đất nước, dân tộc, lãnh đạo đất nước không ngừng phát triển, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực va thê giơi. /.

Anh Nguyễn

Theo Tạp chí Cộng sản

Trái tim (st)

1.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, ti, tr 105-1062. Hồng Anh: “Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng ta”, Tạp chí Cộng sản, 12-1992, tr. 13

Tham khảo: Tổng hợp thuật ngữ trong Liên Quân Mobile

Sỹ Văn

Chuyên gia về sắc đẹp. Nhiều năm công tác trong ngành makeup và thời trang.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button