Giải đáp cuộc sống

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu liên quan đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì vậy toàn cầu hóa luôn là chủ đề nghiên cứu được các chính trị gia, nhà kinh tế, học giả và giới truyền thông thế giới quan tâm.

Các nhà kinh tế nhìn chung coi toàn cầu hóa là tích cực vì nó bị chi phối bởi các mô hình toàn cầu hóa lỗi thời và bỏ qua các vấn đề thực tế vì họ có xu hướng xem xét hoạt động kinh doanh như một kết quả hơn là sự phát triển nói chung.

Đang xem: Mặt trái của toàn cầu hóa là gì

Trong môi trường kinh tế hiện nay, các công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt và nhân viên có thể bị sa thải bất cứ lúc nào.

Trong bài viết có tiêu đề “12 lý do tại sao toàn cầu hóa đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với nền kinh tế thế giới” trên tạp chí Thế giới hữu hạn của chúng ta, Gail Tverberg, chuyên gia tại Viện Kế toán công chứng Hoa Kỳ, đã đề cập đến tác động tiêu cực toàn cầu đối với thế giới nền kinh tế.

Hình ảnh chèn. (Nguồn: Mạng)

Đầu tiên, toàn cầu hóa khiến các quốc gia sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn của mình ngày càng nhanh hơn. Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 12 năm 2001, và một năm sau, sản lượng than của Trung Quốc bắt đầu tăng đáng kể. Điều tương tự cũng xảy ra ở Ấn Độ, mặc dù ở quy mô nhỏ hơn.

Mặt khác, toàn cầu hóa đã làm tăng lượng khí thải carbon dioxide trên thế giới. Nếu thế giới đốt cháy than đá nhanh hơn và không giảm sử dụng các nhiên liệu hóa thạch khác, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm thay đổi khí hậu này sẽ tiếp tục gia tăng, đe dọa môi trường sống của con người.

Hơn nữa, toàn cầu hóa khiến các nhà lãnh đạo quốc gia gần như không thể dự đoán được tác động toàn cầu của các quyết định chính sách của họ. Ví dụ, nếu một quốc gia quyết định giảm lượng khí thải, nó có thể gián tiếp khuyến khích sản xuất và khai thác than ở một quốc gia khác.

Một vấn đề khác là toàn cầu hóa đã đẩy giá dầu thế giới lên cao. Trong lịch sử, thế giới đã trải qua hai lần giá dầu đạt đỉnh. Giai đoạn đầu tiên, từ 1973 đến 1983, xảy ra sau khi nguồn cung dầu của Mỹ bắt đầu giảm vào năm 1970.

Xem thêm: Bằng Tốt Nghiệp THPT – Bằng Tốt Cấp 3 Quan Trọng Như Thế Nào ?

Sau năm 1983, do sản lượng khai thác dầu ở Biển Bắc, Alaska và Mexico tăng và nhu cầu về dầu giảm, giá dầu tăng trở lại từ 20 đô la Mỹ/thùng trước năm 1970 lên 30-40 đô la Mỹ/thùng.

Giai đoạn thứ hai từ năm 2005 đến nay, giá dầu tăng trở lại với nhiều hệ lụy hơn khi nguồn cung tăng không nhiều trong khi nhu cầu dầu bùng nổ do toàn cầu hóa.

Toàn cầu hóa cũng đã dịch chuyển nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Nguồn cung dầu mỏ thế giới không tăng, cầu tăng dẫn đến giá dầu tăng vọt, trở thành thách thức gay gắt đối với các nước tiêu thụ năng lượng lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản.

Do giá dầu liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân, từ thực phẩm đến phương tiện đi lại, giá dầu tăng dẫn đến tiêu dùng bị thu hẹp, là một trong những nguy cơ dẫn đến suy thoái kinh tế.

Ngoài ra, toàn cầu hóa sẽ chuyển việc làm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do quá trình toàn cầu hóa, các nước phát triển khó cạnh tranh với các nước đang phát triển có lợi thế cạnh tranh tốt hơn như tiền lương, phúc lợi cho người lao động, chi phí môi trường thấp… hàng tỷ công nhân Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu giảm, và Tăng trưởng của Trung Quốc sau khi gia nhập wto là một ví dụ điển hình.

Tiếp theo, toàn cầu hóa dẫn đến sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Đây là xu thế tất yếu, bởi các nước đang phát triển có lợi thế cạnh tranh tốt hơn.

Tại Hoa Kỳ, hoạt động đầu tư trong nước khá ổn định cho đến giữa những năm 1980 đang giảm dần. Ngay cả khi chính phủ liên bang đưa ra mức lãi suất cực thấp để khuyến khích đầu tư kinh doanh, thì nó cũng không thể đưa đầu tư trở lại mức ban đầu.

Một thách thức khác là toàn cầu hóa đã khiến đồng đô la Mỹ trở thành nguồn dự trữ ngoại hối của thế giới, khiến Hoa Kỳ rơi vào tình trạng thâm hụt thương mại lớn. Từ năm 1980 đến năm 2011, thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ là 8,6 nghìn tỷ đô la Mỹ và đến cuối năm 2012, con số này đã vượt quá 9 nghìn tỷ đô la Mỹ.

Hoa Kỳ thâm hụt thương mại năm này qua năm khác, trong khi phần còn lại của thế giới có thặng dư trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ và sử dụng thặng dư này để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Chính phần còn lại của thế giới đã tạo ra thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ.

Đồng thời, giá dầu cao, toàn cầu hóa và các chương trình kích thích kinh tế đã dẫn đến thâm hụt ngân sách, buộc người Mỹ phải sử dụng tiền huy động từ trái phiếu và thậm chí là in tiền. Đây là một giải pháp không bền vững sẽ dẫn đến sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế thế giới.

Tham khảo: Hệ thống tài khoản kế toán cho doanh nghiệp đầy đủ chi tiết nhất

Toàn cầu hóa có xu hướng chuyển các khoản thuế phải nộp từ các tập đoàn sang các cá nhân. Do toàn cầu hóa, có nhiều cơ hội cho các công ty chuyển hoạt động của họ sang các khu vực có mức thuế thấp nhất. Đồng thời, với tình trạng thiếu việc làm như hiện nay, người lao động gần như không thể làm được, họ phải cạnh tranh để có việc làm và luôn phải xuất trình các giấy tờ liên quan đến tuân thủ. Kế hoạch nộp thuế cho chủ sở hữu trong tương lai.

Kết quả là, toàn cầu hóa đã dẫn đến sự mất giá của các đồng tiền quốc gia dưới giá trị của chúng, dẫn đến sự cạnh tranh giữa các quốc gia để giành lợi thế xuất khẩu.

Do tính chất cạnh tranh của nền kinh tế thế giới, mọi quốc gia đều cần bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ với mức giá thấp nhất có thể. Điều này có thể đạt được bằng nhiều cách như trả lương thấp cho người lao động, không tuân thủ các quy định về môi trường… Trong đó, giảm giá trị đồng nội tệ so với các đồng tiền khác cũng là một lựa chọn.

Tuy nhiên, do đồng nội tệ bị định giá thấp nên giá hàng hóa nhập khẩu bị đẩy lên cao, dẫn đến mất cân đối thực tế về hàng hóa và dịch vụ.

Toàn cầu hóa cũng khiến nhiều quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu. Do toàn cầu hóa, hàng hóa giá rẻ từ nước ngoài có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nội địa, khiến các nước ít quan tâm đến việc sản xuất những hàng hóa đó và ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào hàng nhập khẩu.

Trong trường hợp có những thay đổi đột ngột trong hệ thống thương mại thế giới, vấn đề có thể trở nên nghiêm trọng. Ngay cả khi sự phụ thuộc không liên quan gì đến an ninh lương thực, thì sự phụ thuộc vào thiết bị và linh kiện sản xuất công nghiệp có thể gây ra nhiều vấn đề cho nền kinh tế khi hoạt động nhập khẩu bị gián đoạn.

Cuối cùng, toàn cầu hóa gắn kết các quốc gia lại với nhau, vì vậy sự sụp đổ của một quốc gia có khả năng tạo ra hiệu ứng domino lan sang các quốc gia khác. Lịch sử đã chứng kiến ​​nguồn gốc, sự hưng thịnh và suy tàn của nhiều nền văn minh.

Thế giới ngày nay không còn quá xa với chu kỳ nói trên. Sự khác biệt quan trọng chỉ có thể là số lượng và mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn hơn giữa các quốc gia ngày nay. Sự thất bại của một quốc gia có thể dẫn đến sự sụp đổ của nhiều quốc gia khác hoặc thậm chí toàn bộ hệ thống.

Ngược lại, các nền văn minh trong quá khứ không phụ thuộc lẫn nhau nhiều và sự sụp đổ của một quốc gia là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của các quốc gia khác. Nhưng mô hình này không khả thi trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay. /.

Xem thêm: Thời điểm dễ thụ thai nhất và các dấu hiệu điển hình

Sỹ Văn

Chuyên gia về sắc đẹp. Nhiều năm công tác trong ngành makeup và thời trang.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button